Điều 364 Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 ngày 27 tháng 11 năm 2015 được sửa đổi bổ sung theo quy định tại Luật số 12/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 quy định về Tội đưa hối lộ như sau
1. Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
b) Lợi ích phi vật chất.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
c) Dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
đ) Phạm tội 02 lần trở lên;
e) Của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
3. Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
4. Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt từ tù 12 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
6. Người nào đưa hoặc sẽ đưa hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công, người có chức vụ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước cũng bị xử lý theo quy định tại Điều này.
7. Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.
Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.
Đánh giá chung về tội đưa hối lộ
Đưa hối lộ là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trực tiếp hoặc qua trung gian để đưa cho người có chức vụ, quyền hạn, để người này làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của mình.
CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI ĐƯA HỐI LỘ
Có thể nói, tội phạm này là tội phạm đối xứng với tội nhận hối lộ ( có đưa có nhận).
1. Các dấu hiệu về chủ thể của tội đưa hối lộ
Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người không có chức vụ, quyền hạn thì chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau:
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đưa hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 364 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp phạm tội này là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm
Khách thể của tội đưa hối lộ là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức; làm cho cơ quan, tổ chức bị suy yếu, mất uy tín, mất lòng tin của nhân dân vào chế độ; làm cho cán bộ, công chức ở cơ quan, tổ chức mình bị thoái hoá biến chất.
3. Các dấu hiệu về mặt khách quan của tội hối lộ
a. Hành vi khách quan của tội đưa hối lộ
Người phạm tội chỉ có hành vi khách quan duy nhất là “đưa”. Nhưng biểu hiện của hành đưa hối lộ rất đa dạng. Có trường hợp người phạm tội trực tiếp đưa hối lộ cho người nhận hối lộ, có trường hợp qua trung gian (người môi giới) để đưa hối lộ cho người nhận hối lộ, có trường hợp người đưa hối lộ dùng thủ đoạn tinh vi xảo quyệt không trực tiếp đưa hối lộ cho người nhận hối lộ cũng không qua trung gian mà tìm cách mua chuộc những người thân thích của người có chức vụ, quyền hạn theo kiểu “mưa dầm thấm đất”; cũng có trường hợp người đưa hối lộ thông qua việc thanh toán hợp đồng kinh tế, hợp đồng mua bán, thông qua việc nộp thuế, nộp lệ phí để đưa hối lộ từ ít đến nhiều, rồi đến một lúc nào đó người đưa hối lộ mới yêu cầu người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của mình. Loại hành vi này, hiện nay đang phổ biến. Qua các vụ án Tân Trường Sanh và đặc biệt là vụ án Năm Cam cho thấy một số cán bộ, công chức kể cả cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước cũng bị những người phạm tội mua chuộc theo kiểu “mưa dầm thấm đất”. Do mất cảnh giác, nên đã vô tình hoặc cố ý tiếp tay cho kể phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Khi xác định hành vi đưa hối lộ cần phân biệt với hành vi làm môi giới hối lộ trong trường hợp người đưa hối lộ không dùng tiền, tài sản của mình và mục đích đưa hối lộ cũng không đem lại lợi ích cho mình mà đem lại lợi ích cho người mà người đưa hối lộ yêu cầu. Ví dụ: Trong vụ án Năm Cam, Trần Văn Thuyết (Thuyết trăm voi, Thuyết buôn vua) nhận tiền của Năm Cam từ Dương Ngọc Hiệp (Hiệp phò mã) là con rể của Năm Cam để đưa hối lộ cho Trần Mai Hạnh, Tổng giám đốc Đài tiếng nói Việt Nam để Trần Mai Hạnh lợi dụng chức vụ quyền hạn can thiệp thả Năm Cam đang bị tập trung cải tạo. Trong trường hợp này, nếu xem xét một cách máy móc, thì Trần Văn Thuyết phạm tội làm môi giới hối lộ nhưng căn cứ vào hành vi và các dấu hiệu của tội nhận hối lộ và tội đưa hối lộ, thì hành vi của Thuyết là hành vi đưa hối lộ.
b. Hậu quả của tội đưa hối lộ
Hậu quả của tội phạm này không phải dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, nếu của hối lộ chưa đến 500.000 đồng thì hậu quả lại là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng phải là hậu quả nghiêm trọng.
Hậu quả nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của con người; những thiệt hại về tài sản, uy tín của cơ quan, tổ chức và những thiệt hại phi vật chất khác.
Hành vi đưa hối lộ gây ra hậu quả nghiêm trọng, được xác định như là một nguyên nhân gián tiếp.
Tuy chưa có hướng dẫn thế nào là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ gây ra, nhưng tham khảo hướng dẫn của liên ngành về các tội xâm phạm sơ hữu, thì có thể coi hậu quả nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ gây ra nếu:
– Làm chết một người;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, trong đó không có người nào có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên;
– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng;
– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ 50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.
– Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội… Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng chưa.
4. Các dấu hiệu về mặt chủ quan của tội đưa hối lộ
Tội đưa hối lộ người thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
Động cơ phạm tội tuy không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này, nhưng hầu hết các trường hợp đưa hối lộ đều có động cơ.
CÁC TRƯỜNG HỢP PHẠM TỘI CỤ THỂ CỦA TỘI ĐƯA HỐI LỘ
1. Phạm tội đưa hối lộ không có các tình tiết định khung hình phạt
Đây là trường hợp phạm tội quy định tại khoản 1 Điều 364 Bộ luật hình sự, là cấu thành cơ bản của tội đưa hối lộ.
So với tội đưa hối lộ quy định tại khoản 1 Điều 289 Bộ luật hình sự năm 1999, thì khoản 1 Điều 364 Bộ luật hình sự năm 2015 nặng hơn . Vì vậy, đối với hành vi đưa hối lộ xảy ra trước 0 giờ 00 ngày 01-01-2018 mà sau 0 giờ 00 ngày 01-01-2018 mới phát hiện, xử lý thì áp dụng khoản 1 Điều 364 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với người phạm tội.
2. Đưa hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 364 Bộ luật hình sự
a. Có tổ chức.
Cũng tương tự như các trường hợp phạm tội có tổ chức khác, đưa hối lộ có tổ chức là trường hợp có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm, trong đó có người tổ chức, người thực hành, người xúi dục, người giúp sức. Tuy nhiên, không phải vụ án đưa hối lộ có tổ chức nào cũng có đủ những người giữ vai trò như trên, mà tuỳ từng trường hợp, có thể chỉ có người tổ chức và người thực hành mà không có người xúi dục hoặc người giúp sức, nhưng nhất định phải có người tổ chức và người thực hành.
b. Dùng thủ đoạn xảo quyệt
Dùng thủ đoạn xảo quyệt để đưa hối lộ là người phạm tội đưa hối lộ có những mánh khoé, cách thức gian dối, thâm hiểm làm cho người nhận hối lộ hoặc những người khác khó lường thấy được để đề phòng.
Những mánh khoé, cách thức mà người đưa hối lộ sử dụng để đưa hối lộ rất đa dạng, nhưng chỉ coi là dùng thủ đoạn xảo quyệt đối với những mánh khoé, cách thức làm cho người nhận không thể từ chối hoặc nếu biết cũng không đối phó được như: Đưa hối lộ nhưng núp dưới hình thức quà tặng nhân ngày sinh nhật, ngày lễ, tết, nhân đám tang, đám cưới, tân gia; chi phí cho một chuyến du lịch, tham quan nước ngoài; chi phí cho con của người nhận hối lộ đi du học nước ngoài; cho vay tiền nhưng “quên” không đòi; bán nhà, đất với giá rất rẻ hoặc mua tài sản với giá rất đắt v.v…
Nói chung, những mánh khoé, cách thức đưa hối lộ mà người đưa hối lộ sử dụng rất khó phát hiện hoặc nếu có bị phát hiện thì khó tìm được chứng cứ để buộc tội họ.
c. Dùng tài sản của Nhà nước để hối lộ
Dùng tài sản của Nhà nước để hối lộ là người đưa hối lộ lấy tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ cho người khác.
Trương hợp phạm tội này hoàn toàn tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 Điều 354 Bộ luật hình sự đối với tội nhận hối lộ. Tuy nhiên, trường hợp phạm tội này thường đối với người đưa hối lộ là người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội đã dùng tiền hoặc tài sản của cơ quan, tổ chức của mình để đưa hối lộ cho người khác với động vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác. Ví dụ: Dùng tiền của công ty để đưa hối lộ, để được giảm thuế nhập khẩu, để được cấp quota, để được trúng thầu, để che giấu hành vi phạm tội của mình…
d. Phạm tội 02 lần trở lên
Phạm tội có từ hai lần đưa hối lộ trở lên và mỗi lần đưa hối lộ đều đã cấu thành tội phạm, không phụ thuộc vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước với lần phạm tội sau. Tuy nhiên, nếu trong các lần phạm tội đó đã có lần bị xử lý kỷ luật, bị phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội nhiều lần.
đ. Của hối lộ có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng
Đây là trường hợp người phạm tội đưa hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng. Nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm đưa của hối lộ hoặc đã hứa đưa hối lộ, vì trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của một người khi thực hiện hành vi phạm tội.
Điều luật quy định của hối lộ có giá trị từ một trăm triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng, chứ không quy định người phạm tội đã đưa được của hối lộ có giá trị như trên, nên chỉ cần xác định người phạm tội có ý định đưa hối lộ mà của hối lộ có giá trị từ mười triệu đồng đến dưới năm mươi triệu đồng là thuộc trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 Điều 364 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã đưa được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc.
3. Đưa hối lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 364 Bộ luật hình sự
Của hối lộ có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 của điều luật chỉ khác ở chỗ: Giá trị của hối lộ từ năm mươi triệu đồng đến dưới một tỷ đồng.
Cũng như đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 2 của điều luật, nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm đưa của hối lộ hoặc đã hứa đưa hối lộ; chỉ cần xác định người phạm tội sẽ đưa của hối lộ có giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng là thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 364 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã đưa được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc; nếu người phạm tội chưa đưa được của hối lộ, thì cũng không vì thế mà cho rằng thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.
4. Đưa hội lộ thuộc các trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 364 Bộ luật hình sự: tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên
Trường hợp phạm tội này cũng tương tự như trường hợp quy định tại điểm e khoản 2, khoản 3 của điều luật chỉ khác ở chỗ: Giá trị của hối lộ từ một tỷ đồng trở lên.
Cũng như đối với trường hợp quy định tại điểm e khoản 2, khoản 3 của điều luật, nếu của hối lộ không phải là tiền mà là tài sản thì giá trị tài sản đó là giá thị trường vào thời điểm đưa của hối lộ hoặc đã hứa đưa hoặc nhận hối lộ; chỉ cần xác định người phạm tội sẽ đưa của hối lộ có giá trị từ ba mươi triệu đồng trở lên là thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự, còn người phạm tội đã đưa được hay chưa, không phải là dấu hiệu bắt buộc; nếu người phạm tội chưa đưa được hoặc mới đưa được một phần của hối lộ, thì thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt ./.